dịch vụ luật sư, tư vấn luật, công ty luật, luật sư, luật sư hà nội

Việt Nam nhập khẩu than: Đã ăn đong thì phụ thuộc...

Cập nhật: 8/12/2014 | 9:10:55 AM

Đã nhập khẩu than là phụ thuộc, huống chi tới năm 2020, nhu cầu của các nhà máy nhiệt điện lên tới gần 70 triệu tấn than/năm.

Đó là đánh giá của ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam trước thông tin Việt Nam sắp nhập khẩu 20 triệu tấn than/năm.

Nhập khẩu để giữ miếng ăn cho đời sau?

Ông Trần Viết Ngãi cho biết, sản lượng khai thác than của Vinacomin ngày càng giảm trong khi nhu cầu của ngành điện ngày càng tăng.

Theo kế hoạch năm 2014-2015 Vinacomin duy trì sản lượng khai thác 40 triệu tấn và tới năm 2020, tập đoàn này cũng duy trì ở mức 40-50 triệu tấn/năm. Các ngành "ăn" than nhiều là điện, hóa chất, xi măng, sắt thép, với các ngành khác, 40 triệu tấn than của Vinacomin có thể cung cấp thoải mái nhưng với các nhà máy điện mới ở miền Nam thì không đủ.

Theo chủ trương của Chính phủ giao cho Bộ Công thương và Vinacomin thực hiện, từ nay đến năm 2020, ngành than phải nhập khẩu 40-50 triệu tấn, riêng năm 2015-2016, khi các tổ máy ở miền Nam đi vào vận hành, số lượng than phải nhập là 20 triệu tấn.

Ông Ngãi tính toán, mức độ "ăn" than của các nhà máy điện rất lớn, có nhà máy tới vài triệu tấn than mỗi năm. Đơn cử, nhiệt điện Duyên Hải công suất 3.000 MW, một năm phải sử dụng 5-6 triệu tấn than, do đó việc nhập khẩu than là bắt buộc.

"Lò đốt của các nhà máy nhiệt điện đòi hỏi loại than chất lượng cao. Mới đây, Việt Nam đã phải nhập của Nga hơn 4 vạn tấn than loại có nhiệt lượng cao về trộn với các loại than xấu của Việt Nam phục vụ cho nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1. Vinacomin hiện nay xuất khẩu rất ít, chưa đầy 2 triệu tấn, chủ yếu là than cục để luyện thép. Việt Nam cũng xuất khẩu một số loại than khác, trong đó có than antraxit, tương đương với than cám 6, 7, chất lượng xấu với số lượng ít và chủ yếu qua đường tiểu ngạch sang Trung Quốc".

Một lý do khác khiến Việt Nam nhập khẩu than, theo ông Ngãi, chính là để giữ nguồn tài nguyên cho đời sau.

"Theo con số khảo sát gần đây, trữ lượng than còn lại bể than Quảng Ninh vào khoảng 2,3 tỷ tấn, nếu duy trì sản lượng khai thác 40-50 triệu tấn/năm thì chỉ mấy chục năm nữa là hết, nguồn than trong nước cạn kiệt. Quan điểm của anh em ngành than là nếu ăn một lúc miếng ăn này thì mai này sẽ hết sạch bách, phải trông chờ vào viện trợ, dễ chết đói. Do đó, chỉ duy trì mức độ khai thác khoảng 40 triệu tấn để kéo dài đến dăm bảy chục năm nữa, để con cháu đời sau còn có miếng ăn. Việc nhập khẩu than được đưa ra là vì thế.

Trong khi đó, bể than sông Hồng cứ nói cho vui vậy thôi chứ chưa khẳng định được trữ lượng bao nhiêu, than dưới đó là than gì. Có đề xuất khí hóa than ở khu vực Hưng Yên, Hải Dương... nhưng cũng chỉ là đưa ra cho vui.

Chúng tôi đã đề nghị thử mở một mỏ thăm dò ở Thái Bình xem thực hư dưới đó có than không, loại than gì, độ sâu bao nhiêu, trữ lượng thế nào, từ đó tính toán cách khai thác, công nghệ khai thác...", ông Ngãi chỉ rõ.


Việt Nam sẽ phải nhập khẩu than với số lượng lớn

Chủ tịch Hiệp hội năng lượng cho rằng, cứ hình dung mức độ ăn than của các nhà máy điện thì sẽ rõ Việt Nam cần phải nhập bao nhiêu than. Theo Quy hoạch phát triển điện lưới quốc gia năm 2011 – 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện 7), để sản xuất được 156 tỉ kWh điện mỗi năm vào năm 2020 (tổng công suất nhiệt điện than khoảng 36.000 MW), các nhà nhiệt điện phải tiêu thụ 67,3 triệu tấn than và đến năm 2030 khi tổng công suất nhiệt điện than tăng lên 75.000 MW thì phải cần đến 171 triệu tấn than.

"Do đó, không phải mường tượng về nguy cơ phụ thuộc vào nguồn than nước ngoài của Việt Nam nữa. Nó đã gần như thế rồi, đã nhập khẩu là phải phụ thuộc", ông nói.

Nhập khẩu than không dễ

Ông Trần Viết Ngãi cho biết, nhiều năm qua, Vinacomin đã đi nhiều nước để tìm kiếm thị trường nhập khẩu than và một số nước có khả năng xuất khẩu than cho Việt Nam gồm: Úc, Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản... Tuy nhiên, việc nhập khẩu than không hề đơn giản, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố.

Theo ông Ngãi, tiêu chuẩn hàng đầu để nhập khẩu than là phải xem chất lượng than, chủng loại than có phù hợp với lò đốt của các nhà máy điện trong khu vực miền Nam hay không. Ví dụ, các lò đốt 600 MW hiện nay không sử dụng than antraxit được mà phải sử dụng than cám 3, cám 4 chất lượng cao hơn.

Thứ hai, cần xác định số lượng than cần nhập khẩu là bao nhiêu và phía đối tác thể xuất khẩu được bao nhiêu.

Thứ ba, đối tác sẽ cung cấp từng quý, từng năm hay cả đời dự án. "Ngành than đã đi thăm dò nhưng không có nước nào cam kết cấp than cho Việt Nam dăm bảy tháng cung như cả đời dự án. Tất cả những con số này chưa hề có. Chính phủ đã có chủ trương nhập từ lâu và giao cho ngành than mày mò, tìm kiếm nhưng đến nay vẫn chưa ăn thua", ông Ngãi nói.

Thứ tư, về giá cả, Việt Nam phải xác định giá than nhập khẩu bao giờ cũng cao hơn giá trong nước.

Cuối cùng, cần có hệ thống hạ tầng để đưa than về mà Việt Nam hiện chưa có bất cứ cái gì.

"Cần có kho trung chuyển, cảng, đường sá, băng chuyền vận chuyển than vào nhà máy v.v... Tất cả đều chưa có gì, chưa có ai thiết kế, quy hoạch hay tính toán đặt ở đâu thì hợp lý. Nhiệt điện Vũng Áng có thể tận dụng cảng của nhiệt điện Formosa, nhiệt điện Nghi Sơn tận dụng cảng của Nhật Bản trước đây làm cho nhà máy xi măng Nghi Sơn... nhưng các nhà máy điện miền Nam thì chưa có gì trong khi nhập than là để phục vụ miền Nam. Với tình trạng này không biết tới năm bao nhiêu Việt Nam mới xong cơ sở hạ tầng.

Song song với đó, Vinacomin cũng phải tìm kiếm, thăm dò thị trường. Có hai đề xuất về cách nhập than, một là mua mỏ than các nước rồi tự khai thác, chuyển về nước, hai là nhập sản phẩm của họ, Việt Nam cần loại than nào thì nhập loại than đó. Cách đầu tiên có hiệu quả lớn, Việt Nam chủ động được. Còn đã đi ăn đong, bán suất nào mua về suất ấy thì Việt Nam sẽ phụ thuộc".

Tuy nhiên, cũng theo ông Ngãi, chưa có nước nào đồng ý bán mỏ than cho Việt Nam, ngành thanh đã đi tìm kiếm 5 năm mà chưa đạt kết quả, kể cả việc hợp đồng nhập khẩu than cũng rất khó.

"Vấn đề bây giờ là Việt Nam phải kết nối với các nước trên thế giới, thăm dò, điều tra, khảo sát, tìm kiếm và ký được các hợp đồng với số lượng lớn, đúng chủng loại than Việt Nam cần", ông nhấn mạnh.

Bản quyền 2021 © Công ty luật Hà Nội VDT

Địa Chỉ: Tầng 3 toà nhà Savina số 1 Đinh Lễ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Điện Thoại: +84989316320 - Fax: +84989316320 - Email: trantien@ngheluat.vn

dịch vụ luật sư, tư vấn luật, công ty luật, luật sư, luật sư hà nội